Các thành phố nhỏ hơn thu hút nhiều người nhập cư hơn. Một bài báo gần đây của Đại học Ryerson phác thảo triển vọng nhập cư tại các thành phố vừa và nhỏ của đất nước Canada.
Thành phố Toronto, Montreal, Calgary và Vancouver là những điểm đến phổ biến cho những người nhập cư đến Canada. Tuy nhiên, các thành phố vừa và nhỏ của Canada đang bắt đầu thu hút nhiều người nhập cư từ nước ngoài hơn.
Tình hình chung từ 2013 – 2019 các tỉnh bang
Từ năm 2013-2019, số lượng người nhập cư định cư ở các trung tâm đô thị nhỏ hơn tăng 45% từ 2015-2019, so với 9% ở bốn thành phố lớn của Canada. Theo một bài báo của Đại học Ryerson do David Campbell viết. Trong cùng thời kỳ, số lượng người nhập cư mới tăng 40% ở phần còn lại của các khu vực đô thị trong điều tra dân số của Canada (CMA).
Tham khảo: Dân số Canada tính đến năm 2021
CMA là các trung tâm đô thị lớn gồm nhiều thành phố tự trị xung quanh một trung tâm. Ví dụ, Toronto CMA bao gồm thành phố Toronto, Mississauga, Brampton, Vaughan và Pickering.
Tỷ lệ nhập cư, là số lượng người nhập cư trên 10.000. Cư dân của các trung tâm đô thị cỡ nhỏ đến trung bình thấp hơn các thành phố lớn.
Toronto có một trong những tỷ lệ nhập cư cao nhất ở Canada. Với 163 trên 10.000 cư dân. Vancouver cũng ấn tượng tương tự với 128 trên 10.000 cư dân. Nhưng làm thế nào để các trung tâm đô thị vừa và nhỏ công bằng?
Tỷ lệ nhập cư là hơn 100 trên 10.000 cư dân trong tổng số 14 trung tâm đô thị nhỏ hơn. Regina và Saskatoon ở Saskatchewan đều có tỷ lệ nhập cư lần lượt là 193 và 178 trên 10.000 cư dân, cả hai đều cao hơn Toronto.
12 trung tâm đô thị nhỏ hơn còn lại có tỷ lệ nhập cư cao là: Halifax, Charlottetown, Fredericton, Moncton, Swift Current, Winkler, Steinbach, Brandon, Thompson, Brooks, High River và Wood Buffalo.
Nhiều thành phố trong số này có dân số tự nhiên giảm. Điều này có nghĩa là số ca tử vong nhiều hơn số ca sinh. Họ phụ thuộc vào việc di cư giữa các tỉnh để duy trì tính cạnh tranh về kinh tế. Vì vậy họ đã bắt đầu thu hút thêm nhiều người nhập cư để tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 đã đóng một phần lớn trong việc giảm số lượng người nhập cư đến các trung tâm đô thị quy mô nhỏ đến trung bình. Điều này là do các hạn chế đi lại hiện tại để hạn chế sự lây lan của vi rút.
Mặc dù có một số miễn trừ đối với các hạn chế đi lại bao gồm một số sinh viên quốc tế. Và người lao động tạm thời. Những người có Xác nhận Thường trú (COPR) được phê duyệt sau ngày 18/02/2020, vẫn không được phép đến Canada.
Lao động nước ngoài tạm thời trở nên phụ thuộc rất nhiều trong thời kỳ đại dịch. Nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu của Canada thường xuyên thuê lao động quốc tế ngắn hạn. Ví dụ về các ngành này bao gồm nông nghiệp và chế biến cá.
Canada sẽ cần phụ thuộc vào nhập cư hơn bao giờ hết. Để thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch. Lực lượng lao động của đất nước đã tăng thêm 1,95 triệu người từ 2009-2010. Hầu hết đều đến từ người nhập cư. Bảng dưới đây minh họa rõ điều này. Nó cho thấy tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động bởi những người nhập cư trên đất liền. Và những người sinh ra ở Canada.
Các tỉnh có tốc độ tăng trưởng lao động nhập cư lớn nhất cũng có nền kinh tế phát triển nhanh nhất. Lực lượng lao động thu hẹp không phải là thách thức duy nhất đi kèm với dân số già. Canada đang đối mặt với nhu cầu ngày càng tăng về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Cũng như các chương trình hỗ trợ thu nhập.
Campbell kết luận bài báo lưu ý rằng tỷ lệ thất nghiệp trên mức trung bình. Và số trường hợp COVID-19 ngày càng tăng. Có thể làm giảm bớt sự ủng hộ của một số người đối với việc nhập cư. Tuy nhiên, về lâu dài, nhập cư sẽ đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế của các trung tâm đô thị lớn. Cũng như các trung tâm đô thị quy mô vừa và nhỏ trên khắp Canada.
Các yếu tố dẫn đến nhập cư khu vực cao hơn
Các chương trình nhập cư trong khu vực cùng có lợi cho người nhập cư và nền kinh tế địa phương. Các chính phủ đã xác định được những khoảng trống trên thị trường lao động cần được lấp đầy bởi người nhập cư. Để người nhập cư có thể làm việc trong lĩnh vực của họ.
Chương trình Đề cử Tỉnh bang (PNP)
Cho phép các tỉnh bang đề cử các ứng viên nhập cư. Mà họ cho rằng sẽ phù hợp với thị trường lao động của họ. Các chương trình này mang lại lợi ích cho các tỉnh ít đông dân hơn. Vì họ có nhu cầu cấp thiết hơn đối với người nhập cư để hỗ trợ nền kinh tế của họ. Tỉnh Manitoba trên thảo nguyên là tỉnh đầu tiên đăng ký PNP vào năm 1996. Và là một trong những tỉnh đầu tiên bắt đầu chương trình của họ vào năm 1999. Cùng với New Brunswick và Newfoundland và Labrador.
Sự ra mắt của hệ thống Express Entry vào năm 2015 đã mang lại cho nó những PNP nâng cao đầu tiên. Chính quyền cấp tỉnh có thể tìm kiếm các ứng viên trong chương trình Express Entry. Để tìm những người có kỹ năng chuyên môn sẽ mang lại lợi ích cho thị trường lao động. Số lượng người nhập cư được chấp nhận thông qua các PNP đã tăng từ khoảng 47.600 vào năm 2014 lên 68.600 vào năm 2019.
Thông qua chương trình này, người nhập cư đến Canada với một công việc. Và kế hoạch định cư từ một nhà cung cấp dịch vụ được chỉ định. Năm 2019, 1.141 người nhập cư mới đến khu vực này. Tỉnh phổ cho những người nhập cư mới là New Brunswick. Tiếp theo là Nova Scotia, Newfoundland và Prince Edward Island. Chính phủ cho thấy AIP đang giúp cải thiện tỷ lệ giữ chân trong khu vực.
Lực lượng nhập cư trong khu vực cũng cao hơn đơn giản vì Canada đã tăng mức nhập cư hàng năm. Mặc dù đại dịch đã khiến lượng người nhập cư mới giảm đáng kể vào năm 2020. Nhưng Canada vẫn cam kết chào đón hơn 1,2 triệu người nhập cư trong vòng 3 năm tới. Trong số này, PNP dự kiến sẽ mang lại khoảng 80.000 mỗi năm và AIP dự kiến sẽ chào đón khoảng 6.000.